Đá granit
hay đá hoa cương là một loại đá mácma
xâm nhập phổ biến có thành phần axít.
Granit có kiến trúc hạt trung tới thô, khi có các tinh thể lớn hơn nằm nổi bật trong đá
thì gọi là kiến trúc
porphia hay nổi ban.
Granit có
màu hồng đến xám tối hoặc thậm chí màu đen, tùy thuộc vào thành
phần hóa học và khoáng
vật cấu tạo nên đá. Các khối granit lộ ra trên mặt đất ở dạng khối và có xu hướng tròn cạnh khi bị phong hóa. Granit đôi khi xuất hiện ở dạng trũng
tròn được bao bọc bởi các dãy đồi được hình thành từ quá trình
biến chất tiếp xúc nhiệt hay sừng hóa.
Granit ở Vườn Quốc gia Yosemite, thung lũng sông Merced
Granit hầu hết có cấu tạo khối, cứng và xù xì,
và được sử dụng rộng rãi làm
đá xây dựng. Tỷ trọng riêng trung bình là 2.75 g/cm3 độ nhớt ở nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn là ~4.5 •
1019 Pa•s . Granit xuất phát từ tiếng Latinh là granum,
nghĩa là hạt để nói đến cấu trúc hạt thô của đá kết tinh.
Khoáng vật học
Stawamus
Chief là granit monolith ở British Columbia
Granit được phân loại dựa trên biểu đồ QAPF dùng cho đá granitoit hạt thô và được đặt tên dựa trên phần trăm của thạch anh, fenspat kiềm (Orthoclas, sanidin, hoặc microclin) và plagiocla trên 1/2 biểu đồ A-Q-P. Granit thực thụ theo khái niệm của thạch học hiện đại chứa cả plagiocla và fenspat kiềm. Khi khối granitoit
không có hoặc có ít plagiocla thì đá được gọi là granit
kiềm. Khi granitoit chứa nhỏ hơn 10% Orthoclas thì được gọi là
tonalit; pyroxen và amphibol là khoáng vật phổ biến trong tonalit. Granit chứa cả muscovit và
biotit thì được gọi là granit hai mica.
Granit hai mica thường có nhiều fenspat kali và ít plagiocla, thường gọi là granit
kiểu S hoặc granit kiểu A. Dạng phun trào
có cùng thành phần hóa học với granit gọi là ryolit. Granit nguyên thủy có độ thấm sơ cấp thấp nhưng có độ thấm thứ cấp cao.
Thành phần khoáng vật
Tỷ lệ trung bình
của các thành phần khoáng vật trong granit trên thế giới được xếp loại theo phần trăm khối lượng theo thứ tự giảm dần như sau::
- SiO2 — 72.04%
- Al2O3 — 14.42%
- K2O — 4.12%
- Na2O — 3.69%
- CaO — 1.82%
- FeO — 1.68%
- Fe2O3 — 1.22%
- MgO — 0.71%
- TiO2 — 0.30%
- P2O5 — 0.12%
- MnO — 0.05%
Phân bố
Granit lộ ra ở Chennai , India .
Granit được biết như là loại đá cấu tạo nên phần lớn vỏ lục địa của Trái Đất. Granit thường xuất hiện ở dạng khối tương đối nhỏ, nhỏ hơn 100 km² và
trong thể batholith, chúng thường đi cùng với các đai tạo núi. Các mạch nhỏ có thành phần giống granit được gọi là mạch aplit và chúng thường phân bố ở rìa của khối xâm nhập granit. Ở một vài nơi, các khối pegmatit hạt rất thô cũng
đi cùng với granit. Granit đã xâm nhập vào lớp vỏ của Trái Đất trong suốt các giai
đoạn địa chất, mặc dù đa số trong chúng có tuổi tiền Cambri. Đá granit là đá nền bị phủ bởi hầu hết các đá trầm tích mỏng trong vỏ lục địa.
Ngoài việc phân bố phổ biến trên thế giới, các khu vực được biết đến với các mỏ granit nổi tiếng như: Brasil - Phần Lan - Ấn Độ - Na Uy - Bồ Đào Nha(Chaves - Vila Pouca de Aguiar) - Tây Ban Nha (Galicia -
Extremadura) - miền nam Châu
Phi (Angola - Namibia - Nam Phi - Zimbabwe) - Thuỵ Điển(Bohuslän) - Hoa Kỳ (New Hampshire - Vermont -
Minnesota - Bắc Carolina)
Nguồn gốc
Granit là đá
xâm nhập được hình thành
từ macma. Mácma
granit có thể có nhiều nguồn gốc khác nhau
và nó thường là các đá xuyên cắt qua các đá khác. Hầu hết các dạng xâm nhập của granit diễn ra trong lớp vỏ Trái Đất ở độ sâu thường lớn hơn 1.5
kilomet cho đến 50 km trong vỏ lục địa mỏng. Nguồn gốc của đá granit rất đa dạng nên cũng sẽ có nhiều cách phân loại khác nhau.
Phân loại theo khu vực theo kiểu Pháp, Anh và Mỹ. Các phân
loại này dẫn đến các nhầm lẫn bởi vì chúng được phân loại dựa trên những các xác định theo nhiều ý nghĩa
khác nhau. Các phân loại chung nhất là ‘alphabet-soup’ được sử dụng nhiều vì chúng dựa trên nguồn gốc của macma.
Nguồn gốc địa hóa
Các khối granitoit kết tinh từ mácma vì vậy chúng có
thành phần gần với điểm eutectic
(hay nhiệt độ thấp nhất trên đường cong cotectic). Mácma tiến hóa theo eutectic bởi sự phân dị mácma, hoặc do chúng
thể hiện cấp thấp trong một phần mácma nóng
chảy. Kết tinh phân
đoạn làm giảm hàm lượng sắt, magiê,
titan, canxi và natri, và làm giàu kali và silic. Fensapt kiềm (giàu kali) và thạch anh là hai thành phần chính của đá granit.
Quá trình
này đề cập đến nguồn gốc của nguồn mácma tạo ra granit,
cũng như thành phần hóa học của nó. Tuy
nhiên, thành phần và nguồn gốc của mácma tạo granit cũng để lại dấu hiệu về khoáng vật và địa hóa của đá nguồn trước khi tan chảy thành
mácma. Thành phần hóa học, cấu trúc và khoáng vật cuối cùng của granit thường khác biệt với nguồn gốc của nó. Ví dụ, granit
hình thành từ đá trầm tích nóng
chảy có thể có nhiều fenspat kali, trong khi granit kết tinh từ bazan nóng
chảy có thể giàu
plagiocla. Trên là sự phân loại “alphabet”
hiện đại.
Phân loại Alphabet soup
Chappell và
White đề xuất phương pháp này lần đầu tiên để chia granit
thành hai loại là granit kiểu I và
granit kiểu S hay granit có nguồn gốc từ đá trầm tích. Cả hai loại granit nay
đều được hình thành từ sự nóng chảy các đá biến chất cấp cao, hoặc các đá
granit hoặc các đá xâm nhập mafic
khác, cũng có thể là các đá trầm tích.
Kiểu M hay kiểu manti cũng
được xếp loại sau này để chỉ các đá granit kết tinh từ mácma mafic có nguồn gốc chắc chắn là từ manti. Loại này rất hiếm gặp bởi vì rất khó để chuyển từ bazanthành granit thông qua quá trình kết tinh phân đoạn.
Granit kiểu A- hay còn gọi là granit
tạo sơn được hình thành bên trên các hoạt động phun trào
núi lửa kiểu “điểm nóng” và khác nhau về đặc điểm khoáng vật học và địa hóa. Các loại granit này
được hình thành từ sự nóng chảy của phần bên dưới vỏ Trái Đất trong các điều kiện rất khô (không
có dung dịch tham gia). Các đá ryolit ở Yellowstone
caldera là các ví dụ về đá có thành phần tương tự với granit kiểu A.
Granit
hóa
Theo thuyết loại trừ phổ biến trước đây, sự granit hóa chỉ granit được hình thành tại chỗ bởi biến chất trao đổi bằng dung dịch mang đến các nguyên
tố như kali và loại bỏ các nguyên
tố khác như canxi trong
đá biến chất để tạo thành granit. This was supposed to occur across a
migrating front. Việc tạo ra granit từ đá biến chất được nung nóng là rất khó, nhưng có thể quan sát
quá trình tạo ra đá amphibolit và granulit. Sự granit hóa và tan chảy bởi quá trình
biến chất là rất khó nhận biết trừ khi cấu tạo leucosome
và melanosome có mặt trong các
đá gơnai. Khi đá biến chất bị nóng chảy nó sẽ không còn
là đá biến chất mà là
mácma, vì vậy các đá thể hiện dấu hiệu chuyển tiếp giữa hai loại đá, nhưng lúc này
đá granit không nhất thiết là phải xuyên cắt vào các đá
khác. Trong tất cả các trường hợp, sự nóng nảy đá ở dạng rắn cần nhiệt độ cao, và
cũng có nước và các chất dễ bay hơi khác có
vai trò làm chất xúc tác để làm giảm nhiệt độ hóa rắn của đá.
Dâng lên
và tan chảy
Dâng lên và
tan chảy tạo ra một lượng lớn granit trong phần trên trong
vỏ lục địa, và cũng là đối tượng tranh cãi của các nhà địa chất. Do các cơ chế mà họ đưa ra thiếu các dấu hiện ngoài thực tế, vì họ chỉ dựa chủ yếu trên các
giả thuyết từ các số liệu mà họ thu thập được. Có hai giả thuyết chính về sự dâng lên của mácma
trong vỏ Trái Đất:
- (Stokes Diapir): là dạng một khối
mácma xâm nhập
và phá hủy
các đá nằm
trên nó
- Fracture Propagation: mácma dâng lên
theo khe nứt
(đứt gãy)
Trong hai cơ chế này, Stokes
diapir đã được sử dụng trong nhiều năm mà không có lý do nào để thay thế nó. Ý tưởng cơ bản của nó là
mácma xâm nhập vào vỏ Trái Đất như là một khối độc lập theo
nguyên tắc đẩy nổi. Khi nó xâm nhập lên trên,
nó nung chảy các đá xung quanh làm chúng ứng xử theo định luật Newton
cho chất lưu và dòng chảy này được bao bọc bởi khối đá mác ma cho phép nó đi qua nhanh hơn mà không bị mất nhiều nhiệt (Weinberg, 1994). Điều này hoàn toàn hợp lý đối với phần bên dưới của vỏ gồm các đá nóng, dẻo, dễ biến dạng, nhưng lại không phù hợp với phần trên của vỏ nơi mà các đá lạnh hơn và giòn hơn. Các đá ở phần trên không
dễ biến dạng, khi mácma dâng lên trong ống (pluton), nó phải tốn nhiều nhiệt hơn để nung nóng
các đá xung quanh, chúng sẽ bị lạnh và hóa rắn trước khi xâm nhập lên các phần bên trên
trong vỏ Trái Đất.
Ngày nay,
xâm nhập theo đứt gãy
(fracture propagation) là cơ chế được các nhà địa chất sử dụng khi giải thích các vấn đề chính liên quan đến sự di chuyển các khối mácma lớn trong vỏ Trái Đất lạnh và giòn.
Mácma dâng lên trong các kênh nhỏ dọc theo hệ thống đứt gãy đã tồn tại trước và mạng lưới các đới căng giãn (chịu ứng suất cắt) đang hoạt động và kết tinh lại giữa các đứt gãy này gọi theo cơ chế tự chèn tạo thành các
dyke (Clemens, 1998)[6]. Khi các kênh dẫn này mở ra, thì
dòng mácma đầu tiên sẽ chen vào,
hóa rắn và tạo một dạng chống mất nhiệt để các mácma
sau xâm nhập vào.
Mácma granit
phải tạo một không gian cho riêng nó hoặc xâm nhập vào các đá
khác để tạo thành các
đá xâm nhập, và một số cơ chế tổng quát cũng được đưa ra để giải thích sự có mặt của khác khối batholith
lớn:
- Dừng
lại, ở nơi mà granit phá vỡ đá xung quanh và đẩy chúng lên trên khi đó nó di chuyển các khối bên trên vỏ
- Đồng
hóa, ở nơi mà granit tan chảy, tiếp tục
đi lên và đẩy
các vật liệu bên trên theo đường đi của nó
- Sự
phồng lên, ở nơi mà khối
granit phồng
lên khi bị
ép và tiêm nhập
vào vị trí của nó
Hầu hết các nhà địa chất ngày nay đồng ý rằng sự kết hợp của các hiện tượng này có thể sử dụng để giải thích sự xâm nhập của granit, và
không phải tất cả các đá granit có thể được giải thích một cách đầy đủ bởi một cơ chế hay theo cơ chế khác.
Phóng xạ tự nhiên
Granit là
nguồn phóng xạ tự nhiên giống như hầu hết các đá tự nhiên khác.
Tuy nhiên, một số loại granit có lượng phóng xạ cao có thể gây nguy hiểm. Một số loại granit có
hàm lượng Uranikhoảng 10 đến 20 ppm. Trong khi đó, các đá mafic khác như tonalit, gabbro hoặc diorit hàm lượng này khoảng từ 1 đến 5 ppm, trong đá vôi và các đá trầm tích thì
hàm lượng này thấp hơn. Một số ống dẫn (pluton) granit lớn là nguồn chứa các kênh dẫn cổ hay các tích tụ quặng urani, ở đó urani bị rửa trôi từ granit và pegmatite có lượng phóng xạ cao lắng đọng cùng trầm tích. Granit có thể được xem là có
khả năng gây các tai biến phóng xạ tự nhiên, ví dụ như các làng phát triển trên nền đá granit
có thể chịu phóng xạ cao hơn các làng ở nơi khác.Các tầng hầm và các
phòng được thiết kế trong đất trên nền đá granit trở thành bẫy giữ khí radon,
một loại khí hiếm nặng hơn không khí và là sản phẩm phân rã từ urani. Radon can also be introduced into
houses by wells drilled into granite. Khí radon tác động mạnh tới sức khỏe, và là nguyên nhân gây ung thư xếp thứ 2 tại Mỹ sau khói thuốc.
Tuy nhiên, trong
đa số các trường hợp, granit vẫn là nguồn phóng xạ tự nhiên trội hơn khi so sánh với các đá
khác. Có rất nhiều tài liệu công bố của các cơ quan khảo sát địa chất trên thế giới có thể truy cập trực tuyến để xem các yếu tố gây nguy hiểm ở các vùng có
granit và các nguyên tắc được liên quan
đến việc phòng chống sự tích tụ khí radon trong nền nhà và nhà kính.
Một nghiên cứu về granit dùng làm mặt bàn bởi National
Health and Engineering Inc of USA , được đưa ra vào tháng 11 năm 2008, tuy nhiên nghiên cứu này không
tìm thấy một loại đá granit đơn lẻ có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe. Hàm lượng radon và
phóng xạ của đá đều nằm bên dưới giới hạn trung bình, và giá trị này rất phở biến ở Mỹ. Dựa trên kết quả thí nghiệm từ khoảng hơn 400 mẫu của 115 loại đá granit làm mặt bàn, các
nhà khoa học kết luận being potentially problematic. Các đá được thí nghiệm bao gồm khoảng 80% các
loại đá dùng làm mặt bàn trên
thị trường tiêu thụ của Mỹ.
Sử dụng
Thời Cổ đại
Kim tự tháp đỏ của Ai Cập (thế kỷ 26 trước Công Nguyên), được đặt tên bởi bề mặt đá granit có sắc đỏ nhạt lộ ra trên mặt, là kim tự tháp lớn thứ 3 ởAi Cập.. Kim tự tháp của Menkaure, cũng cùng tuổi với kim tự tháp trên, được làm từ các khối đá vôi và
granit. Kim tự tháp lớn của Giza (2580
TCN) chứa một cái quan
tài lớn bằng granit được trang trí
bằng “granit đỏ Aswan ”. Kim tự tháp đen bị phá hủy gần như hoàn toàn cùng thời với Amenemhat
III, khi đó được làm bằng granit được đánh bóng, ngày nay được trưng bày tại sảnh chính của Bảo tàng Ai Cập tại Cairo (xem Dahshur). Ngoài ra, người Ai Cập cổ đại còn dùng granit làm cột, giá cửa, ngạch cửa, chốt cửa, tường và lót nền nhà. Làm
thế nào họ lấy được các khối granit mà vẫn còn nguyên
vẹn. Tiến sĩ Patrick
Hunt giả thuyết rằng người Ai Cập sử dụng emery có độ cứng cao hơn độ cứng trong
thang độ cứng Mohs.
Các ngôi đền Hindu lớn ở miền Nam Ấn Độ, được xây dựng vào thế kỷ 11, thời vua Rajaraja Chola I, cũng được làm bằng granit.
Khối lượng granit được sử dụng rất nhiều trong các kiến trúc này
và có thể so sánh với Kim tự tháp lớn của Giza .
Ngày nay
Azul Noche
(Tây Ban Nha)
Lavanda Blue
(Brasil)
Gran Violet
(Brasil)
Santa
Cecilia (Brasil)
Granit được sử dụng rộng rãi ở dạng đá khối và lót nền trong các
tòa nhà công cộng và thương mại, và làm bia tưởng niệm. Granit được sử dụng làm móng
nhà rất phổ biến ở New England . Đường sắt granit,là đường sắt đầu tiên tại Mỹ được xây dựng từ khối lượng lớn granit được khai thác
từ các mỏ đá ở Quincy ,
Massachusetts , đến sông Neponset vào thập niên 1820. Cùng với sự gia tăng mưa axít ở một số nơi trên thế giới, granit bắt đầu thay thế đá hoa, một loại đá từng được ưa chuộng trên thế giới. Granit được đánh bóng
cũng là loại đá phổ biến được chọn để làm mặt bàn trong nhà bếp do nó đạt chất lượng về độ bền và đẹp.
Bê tông với một lượng lớn cát sẽ có bề mặt gồ ghề giống như granit, và thường được sử dụng làm vật liệu thay thế granit. Một lượng granit khổng lồ được dùng trong xây dựng đường sắt Haytor Granite Tramway, Devon , England ,
năm 1820. Các đá curling có đường nét cong
là loại đá trang trí truyền thống được làm bằng granit
Ailsa Craig. Các đá đầu tiên được làm vào thập niên 1750, lấy từ Ailsa Craig ở Scotland . Do
granit loại này rất hiếm nên giá của nó khoảng 1,500 USD. Khoảng 60–70%
các đá được sử dụng ngày nay có nguồn gốc từ granit Ailsa Craig, mặc dù đảo này đã trở thành khu bảo tồn thiên nhiên và không còn hoạt động khai thác đá.
Vách đá
giả
Nửa vòm đá bị cắt bởi băng, Yosemite , là một vòm granit
cổ và là vách đá dùng để leo núi
Đỉnh granit thuộc dãy Torres
del Paine ở Patagonia ,
Chile
Granit là một trong những đá được các nhà leo núi chọn lựa vì nó
không có bậc, vững chắc, hệ thống khe nứtt, masát. Các nơi có vách đá
bằng granit nổi tiếng dùng để leo như Yosemit, Bugaboos, dãy núi Mont Blanc (gồm các đỉnh như Aiguille du Dru, Aiguille du Midi và Grandes
Jorasses), Bregaglia,Corse, các phần của Karakoram, dãy Fitzroy, Patagonia, đảo Baffin, Cornish
coastvà Cairngorms.
Vách đá
granit cũng có thể làm nhân tạo như trong các
phòng tập thể dục và các công viên trò chơi trông có cảm giác giống như granit. Hầu hết chúng được làm bằng vật liệu tổng hợp vì granit
thật rất nặng nếu dán lên
các vách tường tập leo, cũng
như trong các tòa nhà có tường cố định.
Nguồn wikipedia.org
No comments:
Post a Comment